Đau lưng (tiếng Anh là Back pain) là cảm giác đau ở phần phía sau của cơ thể. Tùy vào vị trí đau mà phân chia đau lưng thành 4 khu vực chính là đau cổ, đau giữa lưng (đau lưng trên), đau lưng dưới và đau vùng xương cụt. Trong đó những cơn đau ở vùng thắt lưng là phổ biến nhất do đây là nơi nâng đỡ hầu như toàn bộ phần trên của cơ thể.Các cơn đau lưng có thể dữ dội, cấp tính hoặc mãn tính tùy thuộc vào khoảng thời gian đau. Biểu hiện đặc trưng của đau lưng có thể là đau âm ỉ, nhức nhối, đau thấu xương hoặc cảm giác nóng rát. Hiện tượng đau khó chịu còn có thể lan ra cả cánh tay, bàn tay cũng như cẳng chân và tới cả bàn chân. Đôi khi đau có thể dẫn đến tê bì chân tay hoặc yếu cơ.
Cơn đau lưng có thể bắt nguồn từ các cơ, dây thần kinh, xương, khớp hoặc các bộ phận khác cấu thành nên cột sống. Những ảnh hưởng ở cấu trúc bên trong cơ thể như túi mật, tuyến tụy, động mạch chủ và thận cũng có thể là nguyên nhân gây đau lưng
Đau lưng rất phổ biến, bằng chứng là có đến 9/10 người lớn tuổi đã trải qua tình trạng này một vài thời điểm trong cuộc đời và 5/10 người bị đau lưng diễn ra hàng năm. Theo ước tính thì số người Mỹ gặp phải tình trạng đau lưng vào một số thời điểm trong cuộc sống lên đến 95%. Vì vậy đây là nguyên nhân phổ biến dẫn đến đau mãn tính, mất khả năng lao động và tàn tật. Tuy nhiên rất hiếm khi bị đau lưng vĩnh viễn. Trong hầu hết các trường hợp thoát vị đĩa đệm và hẹp đĩa đệm thì nghỉ ngơi, tiêm hoặc phẫu thuật sẽ giải quyết cơn đau sau trung bình khoảng 1 năm. Ở Mỹ, đau lưng dưới dữ dội là lý do phổ biến thứ 5 khi đến khám bác sĩ và gây ra 40% số ngày nghỉ làm. Hơn nữa nó là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến khuyết tật trên toàn thế giới.
Nguyên nhân
Có tới 85% trường hợp không thể tìm thấy được nguyên nhân sinh lý.
Một số tác nhân gây ra đau lưng bao gồm mạch máu, nội tạng, nhiễm trùng, tác nhân cơ học và nguyên nhân tự miễn dịch. Tủy sống, rễ thần kinh, cột sống và các cơ quan nằm quanh cột sống rất có thể là nguyên nhân gây đau lưng. Dây chằng trước của đĩa đệm là bộ phận cực nhạy cảm, chỉ một chấn thương dù là nhỏ cũng gây ra những cơn đau đáng kể.Khi bị bệnh loãng xương, cấu trúc của xương sẽ trở nên yếu hơn và bắt đầu xuất hiện các vết nứt nhỏ thậm chí gãy xương gây ra đau. Tình trạng viêm khớp ở phía sau lưng cũng gây ra hiện tượng khó chịu. Các khớp nối của xương ống được xác định là nguyên nhân chính gây đau ở khoảng ⅓ số người bị đau lưng mãn tính và hầu hết những gặp chấn thương ở cổ. Có khoảng 98% số người bị đau lưng cấp tính không đặc hiệu trong đó không có vấn đề về bệnh lý nghiêm trọng. Gần 2% còn lại là do các yếu tố thứ cấp, ung thư di căn, nhiễm trùng nghiêm trọng, chẳng hạn như viêm tủy xương sống và áp xe ngoài màng cứng chiếm khoảng 1%
Đau lưng có thể được chia ra thành đau lưng không liên quan đến rễ thần kinh và bệnh lý thần kinh. Trong đó bệnh lý thần kinh xảy ra khi có những tác động chèn ép, viêm nhiễm rễ thần kinh gây ra các triệu chứng thần kinh như tê và ngứa ran.Thoát vị đĩa đệm và hẹp động mạch chủ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các bệnh lý về dây thần kinh. Trong khi đó chấn thương cơ xương sống hoặc dây chằng, thoái hóa cột sống lại là nguyên nhân gây đau lưng không liên quan đến rễ thần kinh. Thoái hóa đốt sống hoặc thoái hóa cột sống xảy ra khi đĩa đệm bị thoái hóa khiến cho nó không thực hiện được chức năng đệm bảo vệ cột sống. Có một sự liên quan giữa hẹp đĩa đệm và đau cột sống lưng đó là khi bị hẹp đĩa đệm thì không gian giữa các đốt sống trở nên hẹp hơn dẫn đến chèn ép dây thần kinh Ngoài ra một số nguyên nhân khác cũng dẫn đến đau lưng như phình động mạch chủ bụng, đau bụng niệu quản. Nhạy cảm hóa trung ương nơi chấn thương hoặc nhiễm trùng gây ra sự nhạy cảm cao và dai dẳng đối với cơn đau dẫn đến tình trạng đau lưng mãn tính. Trạng thái dai dẳng này duy trì cơn đau ngay cả khi các chấn thương ban đầu đã lành. Để điều trị nhạy cảm hóa thường dùng liều thấp của thuốc chống trầm cảm